QUÀ TẶNG LIÊN PHẬT HỘI – “CUỘC CHIẾN VIỆT NAM VÀ HỆ LỤY TÂM LÝ LÂU DÀI”
View: 110 - Trần Kiêm Đoàn 16/09/2024 04:09:15 pm Quà Tặng Tuyệt VờiTháng 8 năm nay, nhân dịp sinh nhật (đúng ra là mừng thọ) 78 tuổi của tôi, một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi nhà xuất bản Liên Phật Hội nhắn tin là chuẩn bị nhận quà chuyển đến nhà qua hệ thống UPS.
Với bản chất chân quê kẻ ở Làng, tôi vẫn thường tự nhắc nhủ mình là nên theo điệu sống “tuổi già phiên phiến”; ai cho quà tặng, dẫu chỉ là một nắm xôi, thì mình cũng cười sung sướng nhận lãnh như thằng Bờm trong ca dao là vui rồi. Mà quả thật là hơn cả nắm xôi trân quý tuyệt vời, một món quà ngạc nhiên của Liên Phật Hội, đến thật! Món quà rất trân trọng và quá dễ thương nhưng… khó nuốt vì liên quan đến chuyện chiến tranh Việt Nam và hậu chấn thương tâm lý.
Tôi mở gói quà ra và mắt già sáng lên, nâng món quà trên tay với nỗi xúc động tràn ngập, ùa đến bất ngờ: Ôi! Đó là một cuốn sách in ấn quá đẹp. Cuốn sách tiếng Anh với tựa đề là: “The Vietnam War and Its Psychological Aftermath” và tác giả là Doan Kiem Tran! Sách in ấn công phu làm quà tặng vừa gây ngạc nhiên thú vị, vừa mang đến cho chính tác giả sự hãnh diện tinh thần mà không trân quý và ngập tràn niềm vui sao được.
Đây là luận án Ph.D (Doctoral dissertation) mà tôi đã viết và bảo vệ thành công trước Hội đồng Giám khảo USC từ hai, ba mươi năm trước. Số là sau khi hoàn thành chương trình Thạc sĩ Xã Hội (Master of Social Works) năm 1987 ở Sac-State và sau 5 năm đi cày, “tiếng gọi rừng thẳm” sách đèn đẩy tôi vào võ đài – chứ không phải văn đài – trở lại. “Võ đài” vì tôi vừa làm việc với nghề CPS cho nhà nước Huê Kỳ, vừa dạy học ở CRC để không quên nghề Bụi Phấn; ngoài ra tôi còn viết văn, làm thơ để nhớ Huế, nhớ phường, nhớ xóm nên khó tránh khỏi tình trạng phải vướng vào bút luận thị phi như lên sàn đấu… võ!
Năm 1993, tôi lại khởi sự ghi danh theo học chương trình Tiến sĩ Tâm lý (Doctor of Psychology). Xương sống cho cấp học Tiến sĩ tại Mỹ cũng như khắp nơi trên thế giới là phần viết luận án. Khi khởi đầu, sinh viên nào cũng nuôi chí "kẻ sĩ luận kinh thư phù thế" nhưng không ít sĩ tử bị đứt gánh giữa đường vì mình phò người mà chẳng ai phò mình cả nên đâm ra chán học. Bởi vậy, nửa chừng viết luận án chỉ mong đủ vừa đủ chữ nghĩa để ra trường cho xong nợ sách đèn. Tôi viết và làm xong các thủ tục quy định cho luận án năm 2000; bảo vệ thành công trước hội đồng Giám Khảo ngày 21 tháng 2 năm 2001. Chủ tịch Hội đồng Giám khảo và cũng là giáo sư bảo trợ chính, GSTS. Roy Sumpter bắt tay chúc mừng và mỉm cười nói một câu “xanh rờn” rằng: “Nên nhớ, đậu Cử nhân thì tưởng mình biết tất cả; đậu Thạc sĩ thì nhận ra mình chỉ mới biết một mặt chuyên môn nào đó của mình và đậu Tiến sĩ thì mới biết là mình… chưa biết gì cả! Ngành học Tiến sĩ là sự chuẩn bị phương pháp luận (methodology) để tự mình học hỏi và nghiên cứu cái mới chứ chẳng phải là đã đạt được tầm tri luận và khối kiến thức chuyên môn nào đó.” Cám ơn Giáo sư Sumpter. Ngành Tâm Lý Học có cả triệu cuốn sách. Sau 7 năm theo học bán trú và online, tôi ngoái nhìn lại đống sách vở cũ và nhận ra rằng, nhiều lắm cũng chỉ học hỏi qua vài ba trăm cuốn và đống tài liệu là cũng đủ ngập đầu. Trong biển học mênh mông, quả nhiên là tôi chưa biết gì cả mà chỉ được trang bị phương pháp luận "tự mình thắp đuốc lên mà đi” để biết mình chưa đáng là cọng rơm trên cánh đồng tri thức.
Thật ra, nếu để cho chính mình tự do chọn lựa thì tôi chưa dám cho in ấn và xuất bản tập luận án nầy vì trong những ngày miệt mài vào thư viện đọc luận án tiến sĩ được tàng trữ trong thư viện của các trường UC Davis, UC Berkeley, Stanford… gần nhà mình, tôi mới thấy được tài năng của những bậc “Đường Sơn Đại huynh” trong môi trường đại học Hoa Kỳ mà phát khiếp! Có những luận án tiến sĩ dài tới 3000 trang, nhưng cũng có luận án chỉ 50 trang. Tôi còn nhớ luận án 50 trang của một sinh viên Đức về âm nhạc thật là đáng “khuynh cái hạ mã” bởi những phần nghiên cứu và trình bày về âm nhạc đều như là những “khẩu quyết” của nghệ thuật. Những luận án tiến sĩ của những sinh viên có tên họ dễ nhận ra lai lịch là người Việt Nam, Trung Hoa, châu Á thì rất khôn khéo, thường viết trong khoảng 2, 3 trăm trang trở lại đủ để ra trường với những đề tài ít gây tranh cãi nhất.
Rời Huế qua Mỹ năm 1982, giấc mơ đầy ám ảnh của tôi là những nhân tài thế hệ đàn anh xứ Huế được đi du học như thầy Lê Khắc Phò, thầy Nguyễn Quới, thầy Lê Văn, thầy Lê Thanh Minh Châu, thầy Lê Văn Hảo, thầy Nguyễn Đức Kiên, thầy cô Lâm Ngọc Huỳnh - Trương Tuyết Anh và các anh chị như Cao Huy Thuần, Thái Kim Lan, Thái Thị Ngọc Dư… thật đáng ngưỡng mộ. So với các bậc “tiền bối” ấy, tôi chưa bao giờ dám mơ – dầu chỉ là trong giấc mơ đầy hoang tưởng nhất – có một ngày gã học trò Làng như tôi được ngồi trên ghế nhà trường ngoại quốc. Bởi vậy, từ khi đặt chân đến Mỹ, tôi đã chạy hết tốc lực làm việc và khuyên nhủ các con học tập với khẩu hiệu: “Qua Mỹ mà mấy đứa con chưa tốt nghiệp đại học, ít nhất là 4 năm thì coi như vẫn còn mù chữ.” Vốn nói cho sướng miệng để động viên các cháu nhưng tôi cảm thấy bâng khuâng vì sợ “nói trước, bước không rời”. Nhưng may quá, tôi có bảy đứa con và không có đứa nào “mù chữ” cả! Tuy hết sức vất vả lo làm việc nuôi con nhưng tôi vẫn cố gắng học để khuyến khích đàn con còn khờ dại của mình rằng “Ba già còn học được thì tụi con còn trẻ phải gắng lên cho hơn Ba nghe!"
Nhớ quê hương thì viết văn làm thơ, thương con thì gắng học. Sự khác biệt giữa sách học và tác phẩm văn học nghệ thuật là “bắt buộc và tự nguyện”. Gai góc giữa tưởng tượng phóng bút tự do và quy lệ nghiên cứu là những nguyên tắc thành văn và bất thành văn. Chữ nghĩa khảo luận theo tiêu chuẩn đặt ngang tầm chất xám và trái tim. Ngôn ngữ nghệ thuật cần độ ấm của trái tim nồng nàn hơn sự khách quan và khoa học của lý luận. Khi sáng tác truyện cũng như giây phút làm thơ thì thường nhà văn, nhà thơ như một con chim sơn ca hát tự do giữa bầu trời xanh; nhưng khi viết theo thể khảo luận và nhận định phải bám trụ nguyên tắc hàn lâm bắt buộc của một luận án, người nghiên cứu phải học hỏi, tham khảo, đi sát dữ kiện và sách giáo khoa, tài liệu chuyên ngành song song với quá trình điều nghiên thông qua các cuộc thăm dò ý kiến được kiểm chứng.
Bởi vậy, khi viết bài giáo khoa nộp cho nhà trường thì câu chữ phải nương vào giá sách. Việc tập sách nầy in ấn theo tinh thần “dissertation” thì tôi có nghĩ đến đã lâu và có nhờ bạn Trần Ngọc Cư viết tựa (preface) nhưng chưa sẵn sàng trình làng vì cần phải dụng công sửa chữa cho phù hợp với các tài liệu, dữ kiện và thông tin cập nhật. Cứ ngày một ngày hai chờ mình “phát siêng" bắt tay vào chỉnh sửa nhưng càng già càng làm biếng… rồi quên đi. Bởi vậy, nếu chư thiện hữu độc giả có dịp lướt mắt qua tập sách nầy thì xin đưa ý nghĩ mình vào bối cảnh “giáo khoa thư” của một gã sinh viên già khoảng 30 năm trước; tuy anh ta viết lách trung thực theo khung thời gian và sự kiện nhưng đồng thời cũng bị giới hạn theo tầm nhìn thời đại. Tập sách có thể đọc qua Online, xin mời bấm vào địa chỉ:
https://trankiemdoan.net/DISSERTATION_Change_Final.pdf
Hội chứng Hậu chấn thương Tâm lý (PTSD)
Đây là một món quà hơi… khó nuốt so với nắm xôi của Thằng Bờm. Tập sách là một thế giới nhỏ mang nội dung tìm hiểu và luận bàn về chiến tranh, hòa bình và tiếng thở dài trong bối cảnh Việt Nam và Hoa Kỳ sau ngày buông súng gác kiếm của bao người hùng thời đại – thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng! Vết thương tâm lý chưa thành sẹo. Nỗi thao thức trăn trở còn vương theo những dòng thế hệ kế thừa.
Nửa thế kỷ trôi qua, thời gian đủ dài để khép lại một thế hệ: Thế hệ Chiến Tranh Việt Nam (The Vietnam War Generation). Về sinh mạng và hình tướng, một thế hệ con người có thể qua đi và mất dấu vĩnh viễn; nhưng về mặt tâm lý, tâm thức và tâm cảm thì di lụy chiến tranh vẫn còn dai dẳng, âm thầm lan chuyển và tác động không biết đến bao giờ.
Cuộc nội chiến Mỹ (American Civil War) chỉ diễn ra trong vòng 4 năm (1861-1865) nhưng chấn thương tâm lý vẫn còn ảnh hưởng đến cả trăm năm sau và chưa biết đến bao giờ. Cuộc chiến Việt Nam dài và nạn nhân thương vong gấp cả mười lần hơn thế nên đã 50 năm sau ngày hết chiến tranh mà di lụy tâm lý vẫn còn đâu đó.
Trong lịch sử ngành Tâm Lý Học thế giới, có một chứng bệnh tâm thần được nhận diện, tham khảo, nghiên cứu càng ngày càng tạo ra dấu ấn tâm lý cũng như sự biến tướng lạ lùng và vi tế đã ra đời sau Chiến tranh Việt Nam. Đó là bệnh tâm lý PTSD (Post Traumatic Stress Disorder = Hội chứng Hậu chấn thương Tâm lý). Đây là căn bệnh rối loạn, chuyển biến và hủy hoại tâm lý mà các chuyên gia y khoa, tâm lý và thần kinh học đã phát hiện năm 1980 từ các cựu chiến binh Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến Việt Nam còn sống sót trở về. Ngày nay, căn bệnh hậu chấn PTSD đã đã trở thành một bệnh tâm thần với tầm nghiên cứu phổ biến nhất trong toàn ngành Tâm Lý Trị Liệu (Psychotherapy) của thế giới.
Riêng với người lính Việt Nam của cả hai miền Nam Bắc đã trực tiếp tham gia cuộc chiến 30 năm thì hiện tượng PTSD chưa được nghiên cứu sâu rộng như ở phương Tây. Ngày nay, tài liệu nghiên cứu về PTSD đã trở thành “thiên kinh vạn quyển” nên qua những dòng viết nhỏ bé trong tập sách, người viết cũng chỉ xin được làm công việc “hạt muối bỏ biển” để học hỏi và tìm hiểu một vài khía cạnh rất tiêu biểu về hiện tượng và ứng dụng của PTSD đối với người Việt, kể cả cựu chiến sĩ và dân thường. Bởi trong khoảng 30 năm trước, cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ còn giới hạn, đồng thời sự tìm hiểu của tôi bị thu nhỏ trong giới hạn “chữ nghĩa học trò” nên mỗi chữ viết ra đều bị giới hạn thời gian, không gian và quá trình trải nghiệm. Điều nầy đã chuẩn bị cho tôi thế sẵn sàng tâm lý khiêm tốn và cầu thị, mong được đón nhận sự chỉ bảo của các bậc thức giả về nghiên cứu và trải nghiệm sống thực của giới đàn anh, đàn chị, đàn em…
Thuốc Tâm Lý cho PTSD
PTSD là một chứng bệnh tinh thần của những người từng sống trong một đất nước, xã hội hay biến cố, hoàn cảnh đã trực tiếp trải qua nhiều biến động và thay đổi mang tính chất “đổi mạng, đổi đời”. Từ trong và sau ngày cuộc chiến Việt Nam chấm dứt, người Việt trong cũng như ngoài nước đang trải qua những biến động hoàn cảnh kéo theo biến động tâm lý. Nếu nhìn qua lăng kính Tâm Lý Trị Liệu thì nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp, người Việt trong cũng như ngoài nước từng trải qua những dao động tinh thần do cuộc chiến Việt Nam và hệ quả của nó vẫn đang còn dấu ấn trong “tâm lý Việt” ngày nay. Đặc biệt là những người lính trận đã trực tiếp tham gia cuộc chiến và đồng bào bị đẩy vào thế hay hoàn cảnh đưa đẩy đứng bên trong hay bên lề cuộc chiến của cả hai miền Nam Bắc.
Phương thuốc an thần theo những phương tiện y khoa của thời đại mới thường có tính cách trấn áp nhất thời sự phát tác và hành hạ người bệnh. Muốn chữa tận gốc, cần thiết phải có phương tiện trị bệnh dụng công thiện xảo hơn. Trong khung thời gian vừa lâu vừa dài thì yếu tố tinh thần và tôn giáo được xem là những phương thuốc thần hiệu nhất để chữa bớt hay chữa lành những bệnh tinh thần đã di lụy và biến chứng qua nhiều chặng đường và hoàn cảnh. Phần nửa sau cuộc đời của thế hệ Chiến tranh Việt Nam, đa số người tìm đến tôn giáo là cốt yếu để tìm sự an lạc cho tuổi già và nơi an nghỉ lúc nhắm mắt xuôi tay. Những phương thuốc thần hiệu nhất giúp an thần là tôn giáo nói chung. Riêng về Phật giáo trong nửa sau thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 đã có một vai trò chữa bệnh tinh thần nổi bật trong xã hội phương Đông cũng như phương Tây.
Với ngành Tâm Lý Trị Liệu, trong số các bậc danh tăng Phật giáo nổi tiếng nhất trên toàn thế giới trong thế kỷ này, Việt Nam có Thiền sư Nhất Hạnh chỉ đứng sau đức Đạt Lai Lạt Ma. Có thể nói đó là những Y sư Tâm Linh giúp nhân loại giảm bớt những cơn đau tinh thần ngày càng cấp tính. Thiền sư Nhất Hạnh được thế giới mệnh danh là “cha đẻ của Chánh Niệm”, người đã giúp hoằng dương Phật giáo vào thế giới phương Tây với Chánh Niệm. Tuy Thiền sư Nhất Hạnh và hậu duệ mới chỉ vận dụng một tuyệt chiêu “Chánh Niệm” – trong Bát Chánh Đạo là diệu dược của đạo Phật chữa bách bệnh, mà trong đó căn bệnh tinh thần là tiêu biểu nhất – cũng đã có khả năng chinh phục thế giới phương Tây theo hướng vương đạo rồi.
Boundless Spirituality viết: Thích Nhất Hạnh được biết như là “Cha đẻ của Chánh Niệm”, ông được xem như có công lao mang đạo Phật vào phương Tây và đưa chánh niệm lan tỏa rộng rãi nơi này (Thích Nhất Hạnh known as "the Father of Mindful-ness", he is credited with helping to bring Buddhism to the West and making mindfulness well known there.)
Ô hay! Trong niềm vui muốn đưa lời cám ơn chơn chất nhất của mình đến nhà Xuất bản Liên Phật Hội về món quà đặc biệt cuốn sách The Vietnam War and its Psychological Aftermath, tôi lại đi quá xa rồi. Tôi không chắc trong ngữ cảnh của người Việt chúng ta thì mình phải dịch thế nào cho đúng. Nếu dịch chữ theo chữ như một kẻ khách quan trước cuộc thế thì sẽ dịch là “Chiến Tranh Việt Nam và Hậu quả Tâm Lý của Nó”. Bởi không thể làm kẻ khách quan đứng ngoài nên khi đưa mình vào nội cảnh thì tôi phải dịch là: “Cuộc Chiến Việt Nam và Hệ lụy Tâm lý lâu dài của Nó”! Là một người trong cuộc thì sẽ thấy được rằng: hậu quả nghiệt ngã của biến cố chiến tranh một thời này thường mang hệ lụy lâu dài đến mai sau.
Cám ơn đạo Phật đã cho tôi tầm nhìn và hướng lý giải về thực chất, hiện tượng và tác động của Chiến tranh Việt Nam trên thân phận… trùng trùng duyên nghiệp của dân mình so với bao nhiêu dân tộc khác có cùng hoàn cảnh. Cám ơn Liên Phật Hội đã tặng một món quà tinh thần tuyệt vời trong dịp “Bảy lên Tám” cho một lão Ngoan Đồng không một tí ti… nội lực thâm hậu mà Kim Dung hoàn toàn chưa biết tới.
Sacramento, Trung Thu 2024
Trần Kiêm Đoàn