Alternative title

CON ĐƯỜNG KIÊN ĐỊNH CỦA BẬC TRÍ CẢ NỮ LƯU KIỀU ĐÀM DI

View: 418 - Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng    7/03/2025 01:03:11 pm
CON ĐƯỜNG KIÊN ĐỊNH CỦA BẬC TRÍ CẢ NỮ LƯU KIỀU ĐÀM DI
CON ĐƯỜNG KIÊN ĐỊNH CỦA BẬC TRÍ CẢ NỮ LƯU KIỀU ĐÀM DI
Trong buổi bình minh của lịch sử Phật Giáo thì những con người bình thường đã nỗ lực tinh tấn tu học và đạt được thánh quả lúc Phật còn tại thế thì khá nhiều, nhưng một vị thánh nữ đầu tiên trong hàng Ni giới mà hậu thế phải trân trọng xưng tụng chính là Nữ Đại Sĩ Ma Ha Ba Xà Ba Đề, cũng chính là Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di, người dì ruột của Thái Tử Siddharta Gautama, tức đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Không biết bao nhiêu bài pháp, sách vở và kinh điển đề cập đến nhân vật nữ vĩ đại với sắc đẹp, lòng từ ái, trí tuệ và đức hạnh tuyệt vời của Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề, người khai sáng con đường tuệ giác cho hàng triệu nữ nhân khắp hoàn cầu tiếp bước trên con đường giác ngộ, giải thoát trong Ni đoàn giáo pháp Như lai.

Câu chuyện được ghi lại, rằng khi Thái tử Siddharta vừa được bảy ngày tuổi thì hoàng hậu Ma Da lìa xa trần thế, vương hậu Kiều Đàm Di là em ruột của Hoàng hậu Ma Da thay chị nuôi nấng Thái tử cho đến trưởng thành, mặc dù Bà cũng hạ sinh một hoàng nam tên là Nan Đà lại để cho nhũ mẫu nuôi nấng. Khi Thái tử rời bỏ phụ hoàng, thê tử, di mẫu và hoàng cung để tìm chân lý, bà luôn thương nhớ và dõi theo từng ngày, tin cho hay Thái tử quyết chí tu hành thì Bà tôn kính con đường của Ngài, nguyện chí thiết hành trì thiện nghiệp. Sau khi Đức Phật thành đạo và trở về hoàng cung thuyết pháp thì Bà đã lắng nghe, thực tập và chứng ngộ sơ quả Tu Đà Hoàn, thấy rõ chân lý của cuộc đời.

Nhờ trí tuệ siêu việt mà bà sớm nhập vào dòng Thánh, phá được ba kiết sử Thân kiến, Giới cấm thủ và Nghi; không còn ích kỷ và vị kỷ, tâm không cố chấp vào lề thói bất hợp lý, quy luật sai lầm, dư luận bên ngoài để xác định tu tập và tôn kính Phật chính là con đường thôi thúc bà đi vào nẻo giác. Do vậy khi vua Tịnh Phạn băng hà, túc duyên đã chín, Bà cùng 500 thể nữ dòng họ Sakya quyết tâm xuất gia. Dù ban đầu khó khăn bởi sự từ chối của Đức Phật, nhưng với lòng tin mãnh liệt của bậc thánh, Bà đã cùng Tôn giả Ananda tha thiết khẩn cầu, rồi thì cuối cùng, Đức Phật đã chấp thuận cho nữ giới được xuất gia, thành lập Ni đoàn đầu tiên trong lịch sử Phật giáo. Từ đó, Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề trở thành hiện thân của sự kiên định, lòng từ bi và trí tuệ, là nguồn suối từ bất tận cho bao thế hệ Ni giới tiếp nối. Sự tinh tấn của Bà đã mở ra cánh cửa giải thoát cho quý nữ nhân đi vào biển tuệ, khẳng định rằng con đường giác ngộ không phân biệt nam hay nữ, màu da, chủng tộc mà chỉ cần có lòng tin tam bảo vững chắc và sự tinh tấn thực hành thiền định thì quả vị chứng đắc Phật tánh là chuyện đương nhiên.

Sở dĩ đức Thế tôn nhiều phen từ chối, rồi cuối cùng chấp nhận cho nữ giới xuất gia là muốn cho đạo nghiệp giải thoát được nghiêm trang nên đưa ra “Bát Kỉnh Pháp” như cương lĩnh pháp chế buộc Ni giới tuân thủ phụng hành. Có lẽ thời kỳ Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề xin xuất gia thì Tăng đoàn cũng chưa có giới luật thực dụng, vì thế mà Bát Kỉnh Pháp cũng là bộ luật Phật chế đầu tiên dành cho hàng Ni chúng phụng hành. Trong Khóa Hư Lục chúng ta từng nghe: Giới như đất bằng, muôn điều lành từ đó mà sanh. Giới như thuốc hay, chữa lành các bệnh. Giới như hòn ngọc sáng, hay phá mờ tối. Giới như chiếc thuyền, hay đưa người qua biển. Giới như chuỗi anh lạc, trang nghiêm pháp thân”, nên tuân thủ giới đức mà hành trì ắt sớm thành tựu đạo nghiệp.

Trước khi đức Phật thành đạo thì Bà La Môn Giáo đã thâm nhập vào nền văn hóa xứ Ấn hàng ngàn năm với chủ trương giai cấp khắc nghiệt và tinh thần phân biệt nam, nữ vô cùng gay gắt. Quan niệm cổ đại trong giáo lý Bà La Môn cho rằng thân nữ là thứ yếu, ngoại tộc, phục tùng nam giới, không có quyền hạn trong xã hội, chẳng được đọc kinh Vệ Đà, không làm thầy tế lễ trong đạo Bà La Môn và tránh ngồi ngang hàng với nam giới. Đức Phật đã tuyên bố “không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, bình đẳng giới tính, chỉ có hành động, đức hạnh mới khẳng định giá trị đích thực của mỗi chúng sanh”, vì vậy mà ngay lập tức chấp nhận cho Nữ giới xuất gia khiến dân chúng thời bấy giờ dị nghị, ngược với quan điểm xã hội đương thời, đó là lý do năm lần bảy lượt đức Thế tôn từ chối như cố tạo ra một thử thách lớn cho hàng nữ lưu vượt qua cửa ải kham nhẫn, và Bát Kỉnh Pháp chính là lưỡi kiếm chém đứt sự ủy mị, yếu đuối thường tình thẳng tiến vào đại đạo cao cả để trang nghiêm pháp thân bằng xâu chuỗi anh lạc mà Bồ Tát Vô Tận Ý từng cúng dường lên Phật Đa Bảo và Thích Ca Mâu Ni Thế tôn. Khả năng thành tựu đạo nghiệp không tùy thuộc vào giai cấp, màu da hay giới tính, đức Phật dạy rằng phẩm hạnh, nhân cách đạo đức và trí tuệ mới nói lên địa vị cao tột của một chúng sanh. Hễ là thiện nam hay tín nữ hoàn thiện thân tâm, phát triển thiện căn, tinh tấn tu tập thì kết quả như nhau. Tuy vậy về thể chất tâm sinh lý thì nữ nhân vốn là kẻ yếu mềm, tình cảm thắm thiết, niềm tin cũng dễ bị lung lạc, cạm bẫy dục vọng cũng dễ bị thử thách gian truân nên Bát Kỉnh Pháp là thành trì chống lại ma quân từ phía ngoài xâm nhập và cũng là con đê ngăn che mực nước tràn bờ từ bên trong.

Chúng ta nên xét xem tại sao Bát Kỉnh Pháp mới nghe điều thứ nhất đã thấy sự mâu thuẩn giữa Nam, Nữ, Tăng, Ni?. Đức thế tôn xuất thân từ hoàng tộc, Ngài hiểu rõ tâm tánh của các vị công nương, hoàng thân quốc thích; Ai trong họ cũng từng là công chúa hoàng triều, tâm tánh cao ngạo mà 500 vị thể nữ dòng họ Sakya vốn cao quý bật nhất này sơ tâm xuất gia thì chí thành khủng khiếp, nhưng vào đạo thời gian nhiều lúc phôi phai. Do đó, điều thứ nhất trong tám pháp kính trọng chư tăng là nhằm ngăn ngừa và dẹp đi tư tưởng phân biệt hạng vị, tự ti mặc cảm hay quyền uy sai khiến vốn ăn sâu trong tâm khảm các vị công nương, hoàng thân, quốc thích đặng có cơ hội giúp chư tôn đức ni đoạn trừ tâm chấp ngã, kiêu mạn, đố kỵ hầu sớm thể nhập vào con đường giải thoát, giác ngộ.

Lại nữa, “Tỳ kheo ni không được an cư nơi không có Tỳ kheo tăng” là một tầm nhìn thấu tình đạt lý của đấng Thiên Nhơn Sư . Dù sao thì các vị Tăng cũng có khả năng bảo vệ, giúp đỡ các vị Ni trong tình trạng nhiễu nhương, cướp bóc, cưỡng hiếp, quấy rối chư Ni trong thời kỳ sơ khai, ngay cả bây giờ mà tình trạng này vẫn còn phức tạp, đặt biệt tại Ấn Độ.

Thánh nữ Ma Ha Ba Xà Ba Đề phụng hành Bát Kỉnh Pháp nhằm áp dụng cho Ni đoàn với 500 vị công nương đầu tiên trong giáo hội như một cương lĩnh nội quy giúp cho quý nữ lưu có cơ hội xuất gia, đi đến đạo quả, thành tựu bản thể Tỳ kheo ni, tạo thành Tăng đoàn Phật giáo nhị bộ hòa hợp, thanh tịnh cùng hướng về nẻo giác.

Trước khi nhập diệt vì thân tứ đại đã chịu sự chi phối của vô thường nên Nữ Tôn giả Ma Ha Ba Xà Ba Đề ngước nhìn Thế Tôn thật lâu, rồi chắp tay cung kính tác bạch: - “Kính bạch Đức Thế Tôn, vào đêm nay con sẽ thành tựu Niết Bàn, nơi không còn sinh, già, bệnh, chết, không còn luân hồi, không còn tái sinh. Con thật hạnh phúc khi trọn kiếp này được là quyến thuộc, là đệ tử bên cạnh Thế Tôn. - Kính bạch Đức Thế Tôn, con là mẹ của Người, người mẹ trong thế gian vô thường hư ảo. Nhưng vĩ đại muôn phần hơn thế, Người lại là Cha của con, người Cha đã sinh ra con trong dòng Pháp bất tử. Người ban cho con niềm an lạc giải thoát, mãi mãi không còn phiền lụy, khổ đau. - Kính bạch Đức Thế Tôn, thân thể Người lớn lên từ những giọt sữa mà con đã chắt chiu gom góp. Nhưng tâm của con lại lớn lên từ dòng sữa Pháp thanh tịnh của Người. Nhờ dòng sữa này, con vĩnh viễn chấm dứt mọi cơn khát trong cuộc đời. - Kính bạch Đức Thế Tôn, được là mẹ của Thái tử là một vinh dự mà bất cứ bà mẹ nào trên đời này cũng đều ước muốn. Dù vậy, làm mẹ của một vị vua tối thượng thì vẫn phải trôi lăn trong sinh tử luân hồi. Kính bạch Đức Thế Tôn, thế nhưng con đã gặp được phúc duyên thù thắng nhất trên thế gian, đó là được trở thành mẹ của một Đức Phật mà trong vô lượng kiếp mới có một vị. Và chính Người đã ban cho con chiếc bè màu nhiệm để vượt thoát biển cả khổ đau của trầm luân sinh tử. Kính bạch Đức Thế Tôn, con xin được đảnh lễ Người.” Tối hôm đó Nữ Tôn Giả Ma Ha Ba Xà Ba Để thị tịch. Chấp bút viết lại công hạnh của Thánh Nữ Ma Ha Ba Xà Ba Đề với dòng chữ hạn hẹp không đủ sức tôn vinh vị Bồ tát Thánh Ni vẹn toàn công đức và đạo hạnh vì Bà đã dành trọn tình thương thế gian để dưỡng dục Thái Tử Siddharta mới vừa đản sinh cho đến khi Đức Phật thành Đạo và chuyển vận Pháp luân thì Ngài lại là Trưởng Nữ của Như lai, năn nỉ xin Thế Tôn cho người nữ xuất gia, tạo ra trang sử cho thế hệ nữ nhân có duyên lành tiếp bước vào đời sống của một phạm hạnh Tỳ kheo Ni thấm nhuần dòng sữa pháp quyện vào Hải Triều Âm đưa chúng sanh thoát vòng tục lụy.

Con được duyên lành sinh ra và lớn lên trong tiếng đại hồng chung thánh thoát dù sau Thánh Ni đến gần 26 thế kỷ mà Phật Pháp vẫn còn luân chuyển để ngày nay còn cơ hội đảnh lễ và tôn vinh công hạnh của Ngài. Sự kiên định, nhẫn nhục và đạo hạnh của Ngài cho con một bài học tinh tấn để phụng trì và bảo vệ chánh pháp dù có muôn trùng khó khăn cũng không sánh bằng những đôi chân trần của 500 thể nữ dòng họ Sakya do Ngài lãnh đạo để bộ hành khất thực cầu xin đức Thế Tôn chấp nhận vào giáo đoàn cho đồ chúng ngày nay quy ngưỡng chánh pháp.

Nguyện cầu Nữ Tôn Giả Ma Ha Ba Xà Ba Đề gia hộ cho Phật Pháp cữu trụ Ta bà và tâm con bất thối chuyển.

Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Practical Buddhism College

Bài liên quan

add
close

Kết nối cùng chúng tôi

Ghi danh nhận tin