ĐÔI NÉT VỀ HÒA THƯỢNG THÍCH MINH HỒI – VIỆN CHỦ NHƯ LAI THIỀN TỰ
View: 810 - Giác Minh Luật 26/05/2025 09:05:27 am
Có lẽ điều mà khiến tôi phải suy nghĩ rất nhiều trong mấy ngày qua là bởi câu nói rất đơn giản của Thầy – Hòa thượng Thích Minh Hồi: “Nhân Lễ kỷ niệm 40 năm thành lập Như Lai Thiền Tự - sư Giác Minh Luật nhớ viết một bài để lưu niệm trong tập kỷ yếu 40 năm của chùa mình”. Câu nói rất đơn giản, nhưng chẳng hề đơn giản chút nào. Nó khiến tôi đi đâu, làm gì cũng phải nghĩ về nó. Biết bao ý tưởng chợt hiện rồi chợt tắt, biết bao con chữ ghi vội rồi lại bỏ dở.
Đối với tôi, công việc viết lách là một thói quen thường ngày nên cũng không quá khó khăn - nhưng để viết về dấu mốc 40 năm của chùa cũng là hành trình bốn thập kỷ mà Thầy đã đặt chân đến nước Mỹ (18/05/1985 – 18/05/2025). Là một điều gì đó rất đỗi thiêng liêng và đặc biệt.
Nhìn lại
Ở một thời điểm nào đó, giữa những sự đổi thay dịch chuyển trước mắt, ta thường nhìn lại những chặng đường đã qua, nhất là những điều dở dang khiến ta chẳng ngừng nuối tiếc. Ngoảnh lại không chỉ là hoài niệm, mà còn là chiêm nghiệm. Chiêm nghiệm về những thay đổi lớn trong đời, trong cơn lốc lịch sử để ra đi, để đặt chân đến một phương trời xa lạ với bối cảnh văn hóa, xã hội hoàn toàn khác biệt.
Có lẽ, cuộc phiêu lưu sinh tử của những chiếc thuyền ra khơi vượt biển, đã sớm qua đi, nó đã nhường chỗ cho một ý thức hệ mới được nảy sinh từ kiên cường, nghị lực. Nó như lớp rễ cây được đâm sâu xuống vùng đất mới. Nhìn lại những bức ảnh, những phong thư cũ. Kỷ niệm dù vui hay buồn, mật thiết hay mơ hồ thì nó vẫn còn đó, như một chứng nhân lịch sử cho sự đến đi, vô thường, bất nhất.
40 năm, cũng là cơ hội để chúng ta được nhìn lại, nhìn lại một cách sâu sắc về những gì đã qua. Nó không chỉ là hành trình hoằng pháp của Thầy mà còn là hành trình của tình thương, của sự sẻ chia và hy sinh thầm lặng.
Lập nguyện độ đời
Hòa thượng Thích Minh Hồi, tục danh là Phạm Văn Sanh, sinh ngày 26 tháng 04 năm 1955 tại ấp 5, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, tỉnh Gia Định (nay là Sài Gòn). Con của cụ ông: Phạm Văn Chánh, pháp danh: Pháp Hải và cụ bà: Nguyễn Thị Mười, pháp danh: Nhơn Ngọc. Bà quy y theo truyền thống Phật giáo Khất sĩ, cả hai ông bà đều là Phật tử thuần thành. Thầy sinh ra trong gia đình có 14 anh chị em, với 13 nam và 1 út nữ, Thầy là con thứ chín trong gia đình. Là một Phật tử từ nhỏ, năm 16 tuổi (1971) Thầy xuất gia với pháp danh là Minh Diệu, tại chùa Phước Lâm, xã Thân Cửu Nghĩa, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường (Mỹ Tho). Năm 1972, Thầy thọ giới Sa-di theo truyền thống Bắc tông với vị Thầy Bổn sư là Đại Đức Thích Thiện Khanh, tại chùa Phước Lâm, tỉnh Bến Tre do một ông bác giới thiệu.
Nhân duyên với Phật giáo Khất sĩ
Thầy vốn dĩ xuất thân từ Phật giáo Bắc tông nhưng khi được duyên lành hạnh ngộ với Đại đức Thích Minh Hải, sau một cuộc trò chuyện thâm tình với nhau thì Thầy đã quyết định chuyển từ hệ Phật giáo Bắc tông qua Phật giáo Khất sĩ để mai này đủ duyên thì thực hành hạnh du phương trì bình khất thực Tứ y pháp. Đây cũng là cuộc gặp gỡ rất đặc biệt, để sau buổi đàm đạo giữa hai người đã làm khởi sinh trong Thầy nhiều ý nguyện về con đường tu học và hành đạo sau này.
Đến năm 1973 (năm 18 tuổi) Thầy được thọ giới Sa-di đắp y theo truyền thống Phật giáo Khất sĩ lúc bấy giờ với Hòa thượng Bổn sư; Trưởng lão Thích Giác Diệu, thuộc Giáo đoàn IV tại Tịnh xá Ngọc Định, tỉnh Mỹ Tho.
Trong năm 1973, sau khi được thọ giới trong Lễ tưởng niệm Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng lần thứ 19, Thầy phát tâm lên núi Cấm (Châu Đốc - An Giang) để thực hành hạnh tu tịnh trong hang động cùng với Hòa thượng Thích Giác Tùng (Giáo đoàn I), Đại đức Thích Minh Hải, Đại đức Thích Minh Thành và một vài chư Tăng trong khoảng thời gian sáu tháng tịnh tu niêm mật. Đặc biệt, trong thời gian tu tịnh này, cũng là lần đầu tiên Thầy hạnh ngộ với Hòa thượng Thích Minh Tuyên để bắt đầu cho một đại sự nhân duyên gắn kết lâu dài sau này trên đất Mỹ. Thời gian sau, Thầy trở về ở tại Thánh thất Cao Đài dưới chân núi Cấm cùng với sư Minh Thăng và tiếp tục thực hành Tứ y pháp như đã nguyện.
Nhân duyên với Hòa thượng Pháp sư
Ngày 15 tháng 11 năm 1973, Thầy được Hòa thượng Thích Giác Tùng khuyên trở về nhập chúng tu học tại Tịnh xá Trung Tâm, quận Bình Thạnh, tỉnh Gia Định là nơi Trụ sở Trung ương của Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Việt Nam thời bấy giờ do cố Hòa thượng Pháp sư Giác Nhiên làm Viện trưởng. Sau khi nhập chúng tu học (năm 1973), Thầy được cố Hòa thượng Pháp sư đặt lại pháp danh là Thích Minh Hồi.
Cuối năm 1973, Thầy lại được Giáo hội cử về Tịnh xá Ngọc Thuận, Trảng Bàng, tỉnh Hậu Nghĩa (nay là tỉnh Tây Ninh) do cố Hòa thượng Pháp sư khai sơn, nhưng Thầy phải trở lại với vai trò tập sự xuất gia thêm một lần nữa trong truyền thống nhập chúng tu học của Giáo đoàn Phật giáo Khất sĩ thời kỳ đó. Đến đầu năm 1974, sau Lễ tưởng niệm Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng lần thứ 20, thì Thầy được thọ giới Sa-di trở lại và ở tới cuối năm 1974 sau Đại lễ Vu lan thì Thầy trở về Tịnh xá Ngọc Bình, quận 2, tỉnh Gia Định do cố Hòa thượng Thích Giác Hiển trụ trì để nương theo tu học.
Nhân duyên hội ngộ với Hòa thượng Thích Minh Tuyên
Đầu năm 1975, Thầy được Giáo hội tiếp tục cử đi tu học tại Tịnh xá Ngọc Hương, tỉnh Phước Tuy (nay là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), do Cố Hòa thượng pháp sư khai sơn vào năm 1965. Đến mùa Phật đản năm 1975, thì Thầy trở về Tịnh xá Ngọc Phước, tỉnh Phước Tuy do Hòa thượng Minh Tuyên trụ trì, đây cũng là nhân duyên hội ngộ quý báu giữa Thầy với Hòa thượng. Mùa Vu lan năm 1977, Thầy được chính thức Thọ đại giới Tỳ-kheo tại Tịnh xá Trung Tâm, quận Bình Thạnh, tỉnh Gia Định do cố Hòa thượng Pháp sư làm Đàn đầu A-xà-lê truyền giới với khoảng 25 giới tử tham dự, đây cũng là giới đàn Tỳ-kheo đầu tiên có số lượng giới tử đông nhất của Giáo đoàn IV Phật giáo Khất sĩ.
Trụ trì Tịnh xá Ngọc Phước (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu)
Vào tháng 03 năm 1980, sau khi được Hòa thượng Thích Minh Tuyên - Nguyên Trụ trì Tịnh xá Ngọc Phước giao phó lại vai trò trụ trì và được Giáo hội chuẩn thuận đề cử, thì năm ấy Thầy đã chính thức trụ trì ngôi Tịnh xá đầu tiên khi vừa tròn 25 tuổi. Trong thời gian trụ trì, Thầy đã nỗ lực xây dựng đạo tràng, hướng dẫn đồng bào Phật tử tu học và phát triển Phật pháp nơi đây một cách hưng thịnh. Sau 4 năm thực hiện sứ mệnh “Trụ Pháp Vương gia, trì Như Lai tạng”, Thầy xét thấy thời thế đã đổi thay, nhân duyên đã hội đủ, nên Thầy quyết chí lên đường rời quê hương để lập đạo nơi phương xa, như một sự bắt đầu cho những tháng ngày du phương sắp tới nơi xứ người.
Những ngày đầu trên đất Mỹ
Ngày 18 tháng 11 năm 1984, Thầy cùng đoàn người vượt biên tới đảo Palau Bidong, Malaysia và ở đảo hơn một tháng rưỡi, sau đó được tiếp tục chuyển qua trại Sungai Besi, Maylaysia ở tới ngày 18 tháng 05 năm 1985 thì chính thức được cố Hòa thượng Pháp sư bảo lãnh sang định cư tại Hoa Kỳ.
Sau rất nhiều thử thách, Thầy đã đặt chân tới Mỹ năm 1985 và lưu trú tu học tại Trụ sở của Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Thế giới; Tịnh xá Minh Đăng Quang – Viện truyền thống Minh Đăng Quang, tại số nhà 8752 Westminster Blvd, thành phố Westminster, ở trung tâm quận Cam (Orange County), tiểu bang California do cố Hòa thuợng Pháp sư thành lập (nay là Pháp viện Minh Đăng Quang – Tổ đình Giác Nhiên).
Đến tháng 9 năm 1985, Thầy được cố Hòa thượng cử đến trụ trì và thành lập Tịnh xá Ngọc Phước, thành phố Memphis, tiểu bang Tennessee. Sau một năm trụ trì, vì nhu cầu Phật sự và hoằng pháp của Hòa thượng Ân sư và xét thấy bản thân cần phải ưu tiên tập trung cho việc tu học, nhất là nâng cao trình độ ngoại ngữ, nhằm thuận lợi trong việc hành đạo sau này nên Thầy quyết định giao lại ngôi Tịnh xá Ngọc Phước (Tennessee) cho Ni sư TN. Liên Tri tiếp nối trụ trì và quay trở về lại quận Cam, California.
Tình huynh đệ
Tháng 9 năm 1986, Thầy xin về chùa Việt Nam, thành phố Garden Grove do Hòa thượng Thích Pháp Châu trụ trì để cùng sống chung với Hòa thượng Thích Minh Tuyên nhằm thuận tiện trong việc hành đạo và huynh đệ hỗ trợ cùng nhau đi học ngoại ngữ. Có lẽ đây cũng là giai đoạn học Tăng-giàu cảm xúc với những kỷ niệm đẹp. Thầy kể về sự kham khổ, về sự “chắt mót từng đồng” từ sự cúng dường của Phật tử để dành dụm đi học, về sự nỗ lực đối diện với những khó khăn, buồn vui, thiếu trước hụt sau trong từng bữa ăn cùng với sư huynh, với tình huynh đệ.
Trụ trì Như Lai Thiền Tự (San Diego – California)
Năm 1987, Thầy trở về Tịnh xá Vạn Đức – San Diego do Hòa thượng Thích Giác Chân trụ trì để xin vào tu học và đến tháng 09 năm 1988, Thầy được cố Hòa thượng Pháp sư cử về chính thức đảm nhiệm vai trò trụ trì Như Lai Thiền Tự, thời bấy giờ là một ngôi tư gia nhỏ, tọa lạc tại 3340 Central Ave, San Diego, California 92105.
Đối diện với biết bao biến cố, đổi thay, dù trong hoàn cảnh nào Thầy vẫn luôn một lòng kiên định, kham nhẫn với lý tưởng để làm tròn sứ mệnh của một vị sứ giả Như Lai, để không phụ lòng Hòa thượng Ân sư năm xưa đã lựa chọn, tin tưởng giao phó. Để rồi trong suốt 37 năm qua kể từ khi Thầy có mặt tại Như Lai Thiền Tự, chùa chiền ngày một khang trang, mở rộng, cộng đồng Phật tử ngày một lớn mạnh, Gia đình Phật tử Chánh Kiến với hơn 35 năm thành lập (năm 1990 - 2025), tất cả đều là minh chứng sống động cho sự hy sinh và cống hiến không ngừng nghỉ trong suốt bốn thập kỷ qua. Nhưng hơn hết, giá trị lớn lao nhất mà Thầy đã để lại chính là tấm lòng bao dung, là những lời dạy đã thấm sâu vào tâm thức của biết bao thế hệ, là con đường tu tập mà Thầy đã dày công mở lối.
Năm 1989, Thầy được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hoa Kỳ đề cử đảm nhiệm chức vụ Tổng vụ trưởng Tổng vụ Xã hội – Kiến thiết. Năm 1992, giữ chức vụ Tổng vụ phó Tổng vụ Cư sĩ do cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Hộ Giác làm Chủ tịch. Đến năm 1993, Thầy được Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Thế giới tấn phong lên hàng giáo phẩm Thượng toạ trong Đại lễ Vu lan. Năm 1998, Thầy cho thành lập thêm Như Lai Thiền Viện (San Diego) nơi đây tiền thân là trung tâm Thiền Yoga của người Mỹ.
Nhân duyên với Thượng tọa Thích Thường Tín (vị Thầy tuyên úy Phật giáo Việt Nam đầu tiên trong quân đội Hoa Kỳ - Tri sự Như Lai Thiền Tự).
Năm 1994, Thượng tọa Thích Thường Tín cùng gia đình xuất cảnh định cư sang Hoa Kỳ theo diện HO (Humanitarian Operation). Cũng kể từ năm 1994, Thượng tọa đã kết duyên với Như Lai Thiền Tự, nương tựa tu học cùng với Thầy cho đến nay (2025) cũng đã hơn 30 năm. Nhờ sự bảo bọc yểm trợ, tình yêu thương của Thầy mà Thượng tọa đã chuyên tâm vừa tu, vừa học để có được những thành tựu đáng ghi nhận như: Cử nhân Tâm lý học (Bachelor of Psychology); Cử nhân Xã hội học (Bachelor of Social Worker), Thạc sĩ Thần học (Master of Divinity/Chaplain Program) và hiện là NCS Tiến sĩ Tâm lý học (PhD of Psychology). Có thể nói Thượng tọa vừa là người học trò nhưng cũng vừa là người bạn đồng hành “đồng cam cộng khổ” trong suốt sự nghiệp phụng sự và dấn thân cùng với Thầy tại mảnh đất Hoa Kỳ này.
Thầy là một người rất có tâm huyết trong việc đào tạo Tăng tài đóng góp cho nền Phật giáo Việt Nam. Không chỉ được gieo trồng nơi Thượng tọa Thích Thường Tín như một chứng nhân mà còn trong suốt hơn 20 năm qua Thầy luôn đều đặn âm thầm tài trợ học bổng giúp đỡ cho các Tăng – Ni sinh du học tại Ấn Độ và liên tục đóng góp vào Quỹ Pháp học của Hệ phái Khất sĩ tại Việt Nam hằng năm để yểm trợ học bổng cho các Tăng – Ni hiện đang du học tại các nước.
Nhân duyên với người viết
Tôi đến Hoa Kỳ vào ngày 07 tháng 04 năm 2017 với visa làm việc tôn giáo (R1 - Religious Worker) đến nay (2025) cũng đã vỏn vẹn chín năm, tôi biết đến Thầy qua lời giới thiệu của Thượng tọa Thích Thường Tín với mục đích ban đầu là muốn đưa tôi sang Mỹ để theo học chương trình Thạc sĩ Tôn giáo học tại Đại học Uwest (University of the West - Los Angeles; California), khi ấy tôi đang học tại Đại học MCU (Mahachulalongkornrajavidyalaya University - Thái Lan). Còn nhớ như in cái ngày đầu tiên khi tôi đặt chân đến Mỹ, cái cảm xúc bồi hồi, vừa lo, vừa thích thú làm sao. Tôi đáp chuyến bay tới thành phố San Diego, tiểu bang California. Thầy đã đích thân ra đón tôi trong một buổi chiều hoàng hôn năm ấy, Thầy hỏi: “Trên máy bay, Sư Luật có ngủ được không?”
Cảm giác bây giờ ngồi nhớ lại vẫn cảm thấy đong đầy kỷ niệm, chân tình, mộc mạc giữa Thầy và trò.
Trong thời gian chờ đợi hồ sơ để đáp ứng những yêu cầu đầu vào cho chương trình đào tạo Thạc sĩ; sợ bị gián đoạn việc học, Thầy đã khích lệ, hướng dẫn, đóng tiền học phí cho tôi như một du học sinh bình thường để theo học tại các trường cao đẳng cộng đồng như: San Diego City College, Mesa Community College. Thầy bảo: “Sư Luật, cứ tập trung vào việc học, phải học cho thật giỏi, nếu cuối tuần có rảnh thì phụ giúp chùa một chút, còn lại mọi công việc cứ để Thầy và quý Phật tử lo”. Tôi rất cảm kích câu nói này của Thầy.
Quả thật, chín năm rồi, ấy vậy mà cho đến bây giờ Thầy vẫn luôn là người chủ động tạo mọi điều tốt nhất cho tôi, để tôi được chuyên tâm lo cho việc học hiện tại (Tiến sĩ Tâm lý học - PhD of Psychology), nghiên cứu, giảng dạy, thuyết giảng và viết sách.
Tôi rất may mắn khi được gần gũi, nương tựa và tu học dưới sự hướng dẫn của Thầy trong suốt thời gian tu học và phụng sự nơi đất Mỹ. Thầy là người rất hiền lành, đức độ và đáng kính. Tôi luôn cảm thấy biết ơn về điều đó.
“Nhờ có tình Thầy con thong dong”
Những dấu ấn
Ngày 31 tháng 12 năm 2000, chính thức đặt viên đá trùng tu Như Lai Thiền Tự với sự quang lâm tham dự đông đảo của chư tôn Đức Tăng – Ni trong các Giáo hội tại Hoa Kỳ và các nước. Năm 2005, Thầy được Giáo hội chính thức tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng, cũng trong năm này công việc trùng tu cũng đã hoàn mãn sau 5 năm xây dựng và chính thức trọng thể cử hành Đại lễ khánh thành kéo dài trong 3 ngày 16-17-18/09/2005 với ba chủ đề chính gồm: Đại hội Hoằng pháp - Trai đàn Thủy lục - Đại giới đàn.
Tuy nhiên, sau đó một tuần, vào lúc 05:30 a.m, rạng sáng ngày thứ Hai, chánh điện Như Lai Thiền Tự đã bị ngọn lửa thiêu rụi hoàn toàn. Vậy là lại một lần nữa Thầy phải tiếp tục cáng đáng trong công cuộc “xây dựng” lại Như Lai Thiền Tự.
Dẫu phải trải qua những chướng nạn, khó khăn thách thức của đời tu nhưng vẫn không làm Thầy nản lòng, dừng bước để duy trì phát triển cơ sở hiện tại và tiếp tục mở rộng các cơ sở hoằng pháp cho Giáo hội như tiếp nối hạnh nguyện của cố Hòa thượng Pháp sư. Vào năm 2007, Thầy đã cho thành lập Thiền viện Minh Đăng Quang tại TP. Atlanta, tiểu bang Georgia và cử Đại đức Thích Minh Đạt về đảm nhiệm trụ trì. Năm 2010, Thầy tiếp tục cho thành lập Như Lai Thiền Tự, thành phố Phoenix, tiểu bang Arizona và cử Đại đức Thích Giác Tri trụ trì. Năm 2011, Thầy nhận Tịnh xá Minh Đăng Quang từ cố Hòa thượng Pháp sư và giao lại do Thượng tọa Thích Minh Nguyên trụ trì.
Viện trưởng Viện Hành Đạo GHPG Tăng-già Khất sĩ Thế Giới.
Năm 2016, tại trụ sở Tổ đình Minh Đăng Quang, thành phố Santa Ana, quận Cam, California. Thầy được Hòa thượng đệ nhị Pháp chủ Thích Giác Lượng và đại chúng Tăng – Ni suy cử chức vụ Phó Viện trưởng Viện Hành đạo GHPGTGKSTG, kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự. Năm 2021, Thầy được Hòa thượng đệ tam Pháp chủ Thích Minh Tuyên và đại chúng Tăng – Ni tại Tổ đình Minh Đăng Quang tiếp tục suy cử lên chức vụ Viện Trưởng Viện Hành đạo GHPGTGKSTG cho đến nay. Có thể nói, đây là một trách nhiệm trọng đại của Giáo hội, nhưng cũng minh chứng cho một tinh thần vô úy, kiên cường, nỗ lực, mà Thầy đã chung lo đóng góp cho sự nghiệp của Tổ-Thầy, của Giáo hội, của Đạo pháp và Dân tộc.
40 năm rồi
40 năm rồi, chặng đường dài với biết bao thăng trầm, đổi thay để bây giờ cùng nhau ôn lại hành trình này, lòng không khỏi dâng trào niềm tự hào và xúc động.
40 năm rồi, những viên gạch đầu tiên đã được đặt xuống, những bước chân đầu tiên đã được đánh dấu trên vùng đất mới như một sự khởi đầu cho một ước mơ, một sứ mệnh.
40 năm rồi, Thầy rời quê hương, mang theo hành trang duy nhất là tâm Bồ-đề rộng lớn và chí nguyện hoằng pháp lợi sinh. Đặt chân đến một miền đất lạ, nơi ngôn ngữ, văn hóa và cuộc sống hoàn toàn khác biệt, Thầy đã đối diện với không ít khó khăn. Nhưng với lòng kiên định và tinh thần từ bi, Thầy đã từng bước xây dựng nên một cộng đồng Phật tử vững mạnh, tạo dựng những mái chùa để làm chốn nương tựa tâm linh cho bao người con xa xứ.
Thầy đã đi đến từng ngóc ngách của cộng đồng, an ủi bằng lời kinh tiếng kệ lúc nửa đêm nơi bệnh viện, nơi nhà xác, nhà tang lễ với những mảnh đời cơ cực, dìu dắt những tâm hồn lạc lối và mang ánh sáng Chánh pháp đến khắp nơi. Dưới sự dìu dắt của Thầy, biết bao thế hệ đã tìm lại niềm an lạc, biết bao mái ấm đã được dựng lại từ sự kết nối yêu thương.
Lời tri ân
Kỷ niệm 40 năm không chỉ là dịp để tri ân Thầy, tri ân những người đã cống hiến, mà còn là khoảnh khắc để chúng ta nhìn về tương lai, tiếp tục gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp. Những ký ức, những bài học và những thành tựu hôm nay sẽ là hành trang quý báu để thế hệ tiếp nối Như Lai Thiền Tự sau này phải có trách nhiệm tiếp tục viết tiếp những trang sử vẻ vang của người đi trước.
Sau tất cả thì nụ cười rộng mở, ánh mắt bao dung và những lời khích lệ chân thành của Thầy sẽ vẫn mãi lan tỏa trong những thế hệ người đồng hương xa xứ năm xưa. Dù ở chân trời góc bể, hay tại thành phố San Diego thân yêu này, thì những người còn ở lại, dù đang ở vị trí nào trong xã hội thì vẫn phải sống trọn vẹn cho cuộc đời, cho lý tưởng cống hiến vì lợi ích muôn người, bởi đời sống là điều rất nhiệm mầu, quý giá.
Trong giây phút thiêng liêng này, xin được cúi đầu tri ân Thầy – tri ân vì đã dành trọn đời mình cho lý tưởng phụng sự nhân sinh.
Xin hãy cùng nhau nhìn lại và hướng đến một chặng đường mới, với niềm tin và khát vọng vươn xa.
GIÁC MINH LUẬT
Trích đăng từ Kỷ yếu 40 năm thành lập Như Lai Thiền Tự - trong bài: Nhờ có tình thầy con thong dong.
HÌNH ẢNH TỌA ĐÀM 40 NĂM NHƯ LAI THIỀN TỰ
























